Dược động học
Hấp thu:
Các nghiên cứu trên người cho thấy, sinh khả dụng của ginkgolide A, ginkgolide B và bilobali-de lần lượt là 80, 88 và 79% sau khi sử dụng một liều 120 mg trong điều kiện nhịn ăn. Sau khi ăn, sinh khả dụng của ba hợp chất trên không thay đổi, ngoại trừ thời gian để đạt nồng độ đỉnh trong máu thì kéo dài hơn. Nồng độ đỉnh trong máu biến đổi từ 16,5 – 33,3 ng/ml ở chế độ nhịn ăn và sau khi ăn là từ 11,5 – 21,1 ng/ml. Ở người, flavonol glycosides (50-300 mg) được hấp thu ở ruột với nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 2 đến 3 giờ. Thời gian bán thải của flavonol glycosides là khoảng 2-4 giờ.
Phân phối
Ở người, khi sử dụng liều 240 mg cao khô lá Ginkgo biloba, có sự thay đổi trong điện não tâm đồ (giảm hoạt động của não sóng chậm và gia tăng hoạt động alpha) trong vòng 3 giờ, điều này cho thấy thuốc đã được hấp thu đầy đủ và đã vượt qua hàng rào máu não. Sau khi tiêm tĩnh mạch ginkgolide B với liều 12 mg/kg, nồng độ thuốc tập trung nhiều ở các mô như gan, tim, thận, dạ dày, tá tràng, với nồng độ lớn hơn khoảng 1,5 lần so với nồng độ trong huyết tương ở tất cả các thời điểm, và gan là nơi thuốc tập trung với nồng độ cao nhất. Tỷ lệ liên kết với protein của ginkgolide B là khoảng 17-21%.
Chuyển hóa
Không phát hiện acid phenylacetic hoặc acid phenylpropionic trong nước tiểu, điều này chứng tỏ rằng flavonoid được chuyển hóa rộng rãi hơn ở người. Chất chuyển hóa chủ yếu là acid benzoic ở dạng tự do hay kết họp.
Ở liều lượng sử dụng trong các nghiên cứu dược động học (21-1000mg), quercetin đã được tìm thấy trong huyết tương ở dạng methyl sulphat hoặc là dạng liên hợp với acid glucuronic. Liều thấp của quercetin được methyl hóa nhiều hơn so với liều cao. Quá trình thủy phân glycosidase có xúc tác là một giai đoạn quan trọng đầu tiên trong việc hấp thu ở đường ruột của glycosid flavonoid. Aglycones không chỉ được hấp thu nhanh chóng mà còn nhanh chuyển hóa thành chất liên hợp pha II và sau đó sẽ được hấp thu trở lại vào lòng dạ dày. Vì vậy glycosidases và các vi khuẩn đường ruột, các enzyme pha II đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định flavonoid được hấp thu qua đường ruột và tái hấp thu.
Thải trừ
Sau khi sử dụng liều 120 mg, thời gian bán thải trung bình là trong khoảng 9,5 – 10,6 giờ đối với ginkgolide B và 3,2 – 4,5 giờ đối với ginkgolide A và bilobalide. Sau khi tiêm tĩnh mạch, thời gian bán thải của ginkgolide A và bilobalide là tương đương so với khi sử dụng bằng đường uống, trong khi gikgolide B có thời gian bán thải ngắn hơn. Sự bài tiết qua nước tiểu của ginkgolides A, ginkgolides B và bilobalide chiếm tương ứng là 74%, 41% và 31% trong tình trạng nhịn ăn.
Quercetin có thời gian bán thải tương đối dài là khoảng 11—28 giờ.